Lịch sử Nazareth

Thời cổ

Nghiên cứu khảo cổ đã phát hiện một trung tâm tang lễ và thờ cúng ở Kfar HaHoresh, cách Nazareth khoảng 2 dặm (3 km), từ khoảng 9.000 năm trước (từ thời gọi là thời đồ đá B tiền đồ gốm).[24] Các di tích của khoảng 65 cá nhân đã được tìm thấy, được chôn dưới các cấu trúc mộ chí đặt nằm ngang chân trời, trong đó một số mộ có tới 3 tấn vữa trắng sản xuất ở địa phương. Các sọ người trang trí được khám phá ở đây đã khiến các nhà khảo cổ tin rằng Kfar HaHoresh là một trung tâm thờ cúng lớn ở vùng xa xôi này.[25]

Năm 1620 giáo hội Công giáo mua một khu diện tích ở lòng chảo Nazarethhe đo được khoảng 100 m x 150 m (15.000 m2) bên sườn đồi gọi là Nebi Sa'in. "Khu tôn kính" này được khai quật rộng rãi từ năm 1955 tới 1965 bởi tu sĩ dòng Phanxicô Belarmino Bagatti, "Giám đốc Khảo cổ học Kitô giáo". Tu sĩ Bagatti là nhà khảo cổ chính ở Nazareth. Quyển sách Excavations in Nazareth (1969) của ông vẫn là sách tham khảo tiêu chuẩn cho ngành khảo cổ của nơi định cư này, và căn cứ trên các khai quật trong khu vực nói trên.

Bagatti đã khám phá ra đồ sành từ thời đại đồ đồng giữa (2.200 tới 1.500 năm trước Công nguyên) và đồ gốm, các silos và các cối xay từ thời đại đồ sắt (năm 1500 tới 586 trước Công nguyên), chỉ cho thấy nơi định cư này có thật ở lòng chảo Nazareth vào thời đó. Tuy nhiên, do thiếu chứng cứ khảo cổ từ các thời Assyria, Babylon, Ba Tư, Hy Lạp hoặc thời đầu cổ La Mã - ít nhất trong các khai quật chính từ năm 1955 tới 1990 - tỏ ra là nơi định cư này dường như đã chấm dứt đột ngột vào khoảng năm 720 trước Công nguyên, trong khi nhiều thành phố trong khu vực bị những người Assyrian phá hủy.

Kỷ nguyên đầu Kitô giáo

Theo phúc âm Luke, Nazareth là quê hương của Giuse cùng Maria, và là nơi thiên thần Truyền tin (sứ thần Gabriel báo tin cho Maria biết bà sẽ thụ thai chúa Giêsu). Trong phúc âm Matthew, Giuse và Maria tái định cư ở Nazareth sau khi chạy trốn sang Ai Cập từ quê nhà ở Bethlehem (Mt.1:18-2:23). Các khác biệt và có thể là mâu thuẫn giữa 2 trình thuật trên về việc sinh chúa Giêsu là một phần của vấn đề Phúc âm nhất lãm. Nazareth cũng được cho là nơi Giêsu lớn lên từ vài điểm ở thời niên thiếu. Tuy nhiên, một số học giả hiện đại biện luận rằng Nazareth cũng là nơi sinh của chúa Giêsu.[26]

James Strange, một nhà khảo cổ học người Mỹ ghi: "Nazareth không được đề cập tới trong các nguồn Do Thái cổ sớm hơn thế kỷ thứ 3 sau Công nguyên. Điều này dường như phản ánh nó thiếu sự nổi bật cả ở vùng Galilee lẫn vùng Judaea."[27] Strange ban đầu suy đoán là dân số của Nazareth vào thời chúa Giêsu phỏng chừng "1.600 tới 2.000 người", nhưng trong lần xuất bản sau, ông đoán "tối đa là 480 người".[28] Năm 2009 nhà khảo cổ người Israel Yardenna Alexandre đã khai quật các di tích khảo cổ ở Nazareth mà bà tuyên bố niên hiệu vào thời chúa Giêsu. Alexandre nói với các phóng viên: "Việc phát hiện này cực kỳ quan trọng vì nó khám phá ra lần đầu một ngôi nhà ở làng Do Thái của Nazareth."[29]

Nazareth thời cổ có thể đã được xây dựng trên sườn đồi, như đã cho biết trong phúc âm Luke: [Và họ dẫn Giêsu] tới sườn lên đỉnh đồi trên đó thành phố của họ được xây dựng lên, nơi đó họ có thể quẳng ông đâm đầu xuống (Lk. 4:29). Tuy nhiên, ngọn đồi được nói đến (Nebi Sa'in) thì quá dốc đối với các nhà ở thời xưa và tính trung bình là 14% độ dốc ở khu vực tôn kính.[30] Nazareth lịch sử được xây dựng chủ yếu ở thung lũng; các đỉnh đồi lộng gió ở vùng lân cận chỉ được cư ngụ từ khi xây dựng khu Nazareth Illit năm 1957. Đáng chú ý là mọi ngôi mộ sau thời đại đồ sắt ở lòng chảo Nazareth (xấp xỉ 2 tá) đều thuộc kiểu kokh (số nhiều:kokhim) hoặc muộn hơn; kiểu này dường như xuất hiện đầu tiên ở Galilee vào giữa thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên.[31] Các ngôi mộ Kokh ở vùng Nazareth đã được B. Bagatti, N. Feig, Z. Yavor khai quật, và được Z. Gal ghi chép.[32]

Các khai quật trước năm 1931 ở khu đất Công giáo mua, không phát hiện dấu vết của nơi định cư Hy Lạp hoặc La Mã ở đây,[33] Tu sĩ Bagatti, nhà khảo cổ chính cho các nơi tôn kính ở Nazareth, đã đào lên vô số đồ tạo tác thời cuối đế quốc La MãByzantine,[34] chứng thực sự hiện diện rõ ràng của con người ở đây từ thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên trở đi. John Dominic Crossan, một nhân vật chủ yếu trong nghiên cứu Tân Ước, đã nhận xét rằng các bản vẽ khảo cổ của Bagatti chỉ cho thấy ngôi làng thực sự nhỏ như thế nào, gợi ý là nó nhỏ hơn một thôn xóm không đáng kể[35].

Phúc âm Mátthêu (Mt.2:19-23) kể:

Sau khi vua Herod băng hà, sứ thần Chúa lại hiện ra với Giuse bên Ai Cập, báo mộng cho ông rằng: "Này ông, hãy dậy đem hài nhi và mẹ Người về đất Israel, vì những kẻ tìm giết hài nhi đã chết rồi." Ông liền trỗi dậy, đưa hài nhi và mẹ Người về đất Israel. Nhưng vì nghe biết Archelaus đã kế vị vua cha là Herod, cai trị miền Judea, nên ông sợ không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Galilee, và đến ở tại một thành gọi là Nazareth. Như vậy, ứng nghiệm lời đã phán qua miệng ngôn sứ: "Ngài sẽ được gọi là một người Nazarene."

Trong Phúc âm John, Nathaniel hỏi: "Có cái gì tốt có thể xuất ra từ Nazareth?" (Jn.1:46). Ý nghĩa của câu hỏi khó hiểu này đã được tranh luận. Một số nhà bình luận và học giả đưa ra giả thuyết rằng câu đó muốn nói là Nazareth quá nhỏ bé và không quan trọng, nhưng câu hỏi không đề cập tới kích thước của Nazareth mà nói về cái tốt lành của nó. Thực ra, Nazareth được các tác giả phúc âm mô tả cách tiêu cực; phúc âm Mark biện luận rằng Nazareth đã không tin chúa Giêsu và vì thế ông đã "không thể làm được phép lạ nào ở đó" (Mk.6:5); trong phúc âm Luke, những người Nazareth được mô tả như tìm cách giết chúa Giêsu bằng cách quăng ông xuống vực dưới chân đồi (Lk.4:29); trong phúc âm Thomas, và trong cả bốn phúc âm hợp giáo qui (Matthew, Mark, Luke, John) chúng ta đọc thấy câu nói nổi tiếng này "một ngôn sứ có bị coi thường, thì cũng chỉ ở chính quê hương của mình."[36]

Nhiều học giả, kể từ W. Wrede (năm 1901)[37] đã ghi chú điều gọi là bí mật của vị Cứu tinh trong Phúc âm Máccô, bởi đó bản chất thực của chúa Giêsu và/hoặc sứ mạng (của ông) được mô tả là nhiều người không nhận biết, kể cả những tông đồ thân thuộc (Mk.8:27-33) (so với câu trong phúc âm John: Không ai đến với tôi được, nếu chúa Cha không ban ơn ấy cho).[38] Nazareth, là quê hương của những kẻ gần gũi, thân thuộc với chúa Giêsu, dường như lại có quan hệ tiêu cực với giáo lý của ông. Như vậy, câu hỏi của Nathanael nói trên phù hợp với cái nhìn tiêu cực về Nazareth trong các phúc âm hợp giáo qui, và với lời tuyên bố của John rằng ngay cả anh em Người cũng không tin vào Người (John 7:5).

Một tấm thẻ ở Thư viện quốc gia Pháp tại Paris, có niên đại năm 50 sau Công nguyên, được gửi từ Nazareth tới Paris năm 1878. Thẻ này có chữ khắc gọi là "Ordinance of Caesar" (sắc lệnh của Caesar) thảo ra các nét chính của tội tử hình cho những kẻ xâm phạm mồ mả. Tuy nhiên, có sự nghi ngờ là bản chữ khắc này được gửi tới Nazareth từ một nơi khác (có thể là Sepphoris). Bagatti viết: "chúng tôi không chắc là nó được tìm thấy ở Nazareth, dù là nó từ Nazareth tới Paris. Tại Nazareth có nhiều người bán đồ cổ, họ kiếm được các cổ vật từ nhiều nơi."[39] C. Kopp xác định rõ hơn: "Phải chấp nhận cách chắc chắn là [Ordinance of Caesar]… được đưa tới thị trường Nazareth bởi các nhà buôn bên ngoài."[40] Nhà khảo cổ học Jack Finegan của đại học Princeton mô tả các bằng chứng khảo cổ phụ thêm liên quan tới nơi định cư ở lòng chảo Nazareth trong thời đại đồ đồngthời đại đồ sắt, và nói rằng "Nazareth là nơi định cư vững chắc của người Do Thái trong thời đế quốc La Mã".[41]

Giữa thập niên 1990, chủ tiệm Elias Shama phát hiện các đường hầm dưới cửa hàng của mình gần Mary's Well (giếng nước Maria) ở Nazareth. Các đường hầm này cuối cùng được công nhận là một hypocaust[42] cho một nhà tắm. Nơi chung quanh đó được khai quật trong 2 năm 1997-1998 bởi Yardena Alexandre, và các di tích khảo cổ lộ ra được biết chắc là từ các thời đế quốc La Mã, Thập tự chinh, Mamlukđế quốc Ottoman.[43][44][45][46]

Nazareth năm 1842

Epiphanius viết trong Panarion (khoảng năm 375 sau Công nguyên)[47] về một bá tước sắp già Joseph của Tiberias nào đó, một người Do Thái giàu có thuộc đế quốc La Mã, cải sang Kitô giáo trong thời hoàng đế Constantine I. Bá tước Joseph tự nhận là khi còn trẻ ông đã xây các nhà thờ ở Sepphoris cùng các thành phố khác chỉ có người Do Thái cư ngụ.[48] Nazareth được nói đến, dù ý chính xác không rõ ràng.[49] Trong bất cứ tình huống nào, Joan Taylor viết: "Bây giờ có thể kết luận là ở Nazareth, từ thời đầu của thế kỷ thứ 4, có một nhà thờ nhỏ không theo qui ước có chứa một khu liên hợp hang động."[50] Thành phố là của người Do Thái cho tới thế kỷ thứ 7 sau Công nguyên.[51]

Mặc dù được nói đến trong các phúc âm Tân Ước, không có sự đề cập tới Nazareth ngoài Thánh kinh nào cho tới khoảng năm 200 sau Công nguyên, khi Sextus Julius Africanus - được trích dẫn bởi Eusebius (Church History 1.7.14) – nói về "Nazara" như một làng ở miền "Judea" và ghi vị trí của nó ở gần một nơi gọi là "Cochaba" cho đến nay vẫn chưa biết rõ ở đâu[52] Cũng trong đoạn đó, Africanus viết về desposunoi – những người thân thuộc của Giêsu - những người mà ông ta cho là giữ các ghi chép về dòng dõi của họ rất cẩn thận. Vài tác giả đã biện luận rằng sự thiếu vắng các đề cập tới Nazareth bằng văn bản trong thế kỷ thứ nhất và thứ hai, gợi ý là thành phố này không có người cư ngụ trong thời chúa Giêsu.[53] Những người đưa ra giả thuyết này đã tìm cách củng cố trường hợp của họ bằng các lý giải ngôn ngữ, văn học và khảo cổ,[54] dù cho các sử gia xu hướng chủ đạo và các nhà khảo cổ đã gạt bỏ các quan điểm như vậy là "không thể chịu nổi về mặt khảo cổ".[55]

Thời giữa La Mã tới đế quốc Đông La Mã

Năm 1960, một bản khắc bằng tiếng Hebrew được tìm thấy ở Caesarea, có niên đại cuối thế kỷ 3 hoặc đầu thế kỷ 4, đề cập tới Nazareth như một trong các nơi mà gia đình giáo sĩ tế lễ (kohanim) Hapizzez đã cư ngụ sau cuộc khởi nghĩa Bar Kokhba (132-135).[56] Từ 3 mảnh vỡ được tìm thấy, có thể cho thấy bản chữ khắc là một danh sách đầy đủ của 24 chi giáo sĩ tế lễ (cf. 1 Chronicles 24:7-19; Nehemiah 11;12), trong đó mỗi chi (hoặc gia tộc) được quy định phẩm chức của mình và tên của mỗi thành phố hay làng ở miền Galilee nơi họ định cư. Một điều đáng chú ý của bản khắc là tên của Nazareth không đọc bằng âm "z" (như người ta có thể mong đợi từ các phúc âm tiếng Hy Lạp) nhưng bằng tsade tiếng Do Thái (do đó là "Nasareth" hoặc "Natsareth").[57] Eleazar Kalir (một thi sĩ Do Thái xứ Galilea có các niên đại khác nhau từ thế kỷ thứ 6 tới thứ 10 sau CN) cũng đề cập tới một nơi rõ ràng ở vùng Nazareth mang tên Nazareth נצרת (trong trường hợp này đọc là "Nitzrat"), là quê hương của các hậu duệ thị tộc Kohen hoặc 'chi tộc giáo sĩ tế lễ' ở thế kỷ 18, Happitzetz הפצץ, theo sau cuộc cách mạng Bar Kochva ít nhất cũng từ nhiều thế kỷ.

Trong thế kỷ 6, các tường thuật tôn giáo từ các Kitô hữu địa phương về Trinh nữ Maria bắt đầu tạo ra sự chú ý tới nơi này trong những người hành hương, những người lập ra nhà thờ Truyền tin của Chính thống giáo Hy Lạp ở chỗ giếng nước ngày nay gọi là giếng Maria. Năm 570, các tường thuật nặc danh Piacenza về chuyến đi từ Sepphoris tới Nazareth và nhắc đến sắc đẹp của các phụ nữ Do Thái ở đây, những người nói rằng Maria là thân thuộc của họ, và ghi tiếp: "Ngôi nhà của đức bà Maria là một vương cung thánh đường."[58]

Bưu thiếp Nazareth, do Fadil Saba vẽ

Nhà văn Kitô giáo Jerome, viết trong thế kỷ 5 rằng: Nazareth là một làng viculus (?) hoặc hơn thế nữa. Thành phố Do Thái thu được lợi từ việc buôn bán với những người hành hương Kitô giáo bắt đầu từ thế kỷ 4, nhưng thái độ thù địch Kitô giáo ngấm ngầm đã bùng nổ trong năm 614 sau CN khi những người Ba Tư xâm chiếm Palestine. Ở thời này – theo C. Kopp viết năm 1938 – các cư dân Do Thái ở Nazareth đã giúp những người Ba Tư tàn sát các Kitô hữu trong nước.[59] Khi hoàng đế Heraclius của đế quốc Đông La Mã (hay Byzantine) đuổi những người Ba Tư khỏi Palestine năm 630 sau CN, ông đã lựa chọn Nazareth để áp dụng hình phạt đặc biệt và áp đặt sự lưu đày cưỡng bách các gia đình Do Thái. Ở thời này, thành phố không còn là Do Thái.

Sự thống trị của người Hồi giáo

Bưu thiếp cũ về các phụ nữ Nazareth, dựa trên ảnh chụp của Félix Bonfils

Sự xâm chiếm Palestine của người Hồi giáo vào năm 637 sau CN đã du nhập đạo Hồi vào vùng này. Trên 4 thế kỷ tiếp theo sau, đạo Hồi đã được một phần lớn dân số theo, tuy nhiên vẫn còn một thiểu số người Kitô giáo Ả rập đáng kể. Với sự nổ ra cuộc Thập tự chinh thứ nhất, bắt đầu một thời kỳ xung đột kéo dài, trong đó quyền kiểm soát thay đổi nhiều lần giữa người Saracens địa phương và người châu Âu. Quyền kiểm soát mìền Galilee và Nazareth thường thay đổi trong thời gian này, tương ứng với sự va chạm về tính chất tôn giáo của dân số.

Năm 1099, nhà Thập tự chinh Tancred chiếm được miền Galilee và thiết lập thủ đô ở Nazareth. Giáo phận cổ Scythopolis cũng tái đặt vị trí dưới quyền tổng giám mục Nazareth, một trong 4 tổng giáo phận ở vương quốc Jerusalem. Thành phố lại rơi vào tay người Hồi giáo kiểm soát vào năm 1187 sau chiến thắng của Saladin trong trận Hattin. Các quân Thập tự chinh và giáo sĩ châu Âu còn lại bị buộc phải rời thành phố.[60] Hoàng đế Friedrich II tìm cách thương thuyết lối đi an toàn cho những người hành hương từ Acre năm 1229, và năm 1251, Louis IX, vua Pháp, đã tới dự lễ misa ở hang động, có vợ đi kèm.[60]

Năm 1263, Baybars, sultan nhà chiến binh Mamluk, đã phá hủy các nhà Kitô giáo ở Nazareth và tuyên bố cấm hàng giáo sĩ latinh tới nơi này, như một phần nỗ lực của ông để đuổi những người Thập tự chinh còn sót lại ra khỏi Palestine.[60] Khi các gia đình Kitô giáo Ả rập vẫn tiếp tục sinh sống ở Nazareth, thì thân phận của họ bị làm cho thành một làng nghèo đi. Những người đã tới đây năm 1294 tường thuật rằng chỉ có một ngôi nhà thờ nhỏ che chở hang đá.[60]

Trong thế kỷ 14, các nam tu sĩ dòng Phanxicô đã được phép trở lại đây và cư ngụ bên trong phế tích của Vương cung thánh đường, nhưng cuối cùng họ cũng lại bị đuổi khỏi đây năm 1584.[60] Năm 1620, Fakhr-al-Din II, một tiểu vương Druze[61], người kiểm soát việc cai trị vùng Đông Địa Trung Hải thuộc đế quốc Ottoman này, đã cho phép các nam tu sĩ nói trên trở lại để xây dựng một ngôi nhà thờ nhỏ tại hang Truyền Tin. Các chuyến hành hương tới các địa điểm thiêng liêng ở vùng chung quanh cũng được các tu sĩ dòng Phanxicô tổ chức từ đây trở đi, nhưng các nam tu sĩ bị các bộ tộc Bedouin ở vùng chung quanh quấy rối, chúng thường bắt cóc họ để đòi tiền chuộc.[60] Tới thời Daher el-Omar cai trị thì có sự ổn định trở lại, một sheikh đầy quyền lực cai trị phần lớn miền Galilee, đã cho phép các tu sĩ dòng Phanxicô xây một nhà thờ năm 1730. Nhà thờ này tồn tại tới năm 1955, thì bị phá đi để xây một nhà thờ lớn hơn, hoàn thành năm 1967.[60]

Nazareth bị đạo quân của Napoleon Bonaparte chiếm năm 1799, trong chiến dịch Pháp xâm lược Ai Cập. Napoleon đã tới thăm các nơi thiêng liêng và xem xét bổ nhiệm tướng Junot làm công tước Nazareth.[60] Trong thời tướng Ai Cập Ibrahim Pasha (1830–1840) cai trị phần lớn vùng Đông Địa Trung Hải thuộc đế quốc Ottoman, Nazareth được mở cửa cho các nhà truyền giáo châu Âu và các thương gia. Sau khi triều đại Ottoman tái chiếm quyền kiểm soát, thì tiền tệ châu Âu tiếp tục đổ vào Nazareth và một số lớn cơ sở được thiết lập. Các Kitô hữu Nazareth được bảo vệ trong các cuộc tàn sát thập niên 1860 do nhà cầm quyền Aghil Agha, một lãnh tụ Bedouin nắm quyền kiểm soát tình hình chính trị và an ninh trong miền Galilee từ năm 1845 tới 1870 tiến hành.[60]

Kaloost Varstan, một người Armenia từ Istanbul tới đây năm 1864 và lập ra cơ sở y tế truyền giáo đầu tiên ở Nazareth, "bệnh viện trên đồi" Scotland, với sự bảo trợ của hội "Edinburgh Medical Missionary Society" (Tin Lành). Sultan nhà Ottoman, thực hiện quan hệ ngoại giao tốt đẹp với đế quốc Pháp, đã cho phép họ thành lập một cô nhi viện, hội thánh Francis de Sale. Cuối thế kỷ 19, Nazareth là một thành phố có nhiều Kitô hữu người Ả rập và một cộng đoàn châu Âu đang lớn lên, nơi một số dự án thị xã được thi hành và các cơ sở mới về tôn giáo được dựng lên.[60]

Kỷ nguyên hiện đại

Nazareth hiện đại

Nazareth nằm trong lãnh thổ được phân chia cho nước Ả rập trong Kế hoạch chia cắt Palestine năm 1947 của Liên Hiệp Quốc (1947 UN Partition Plan). Thành phố không là bãi chiến trường trong cuộc chiến tranh Ả Rập-Israel 1948 trước cuộc ngừng bắn ngày 11 tháng 6, mặc dù một số dân làng đã tham gia các lực lượng quân sự nông dân được tổ chức lỏng lẻo hoặc lực lượng bán quân sự, và đội quân của Quân đội giải phóng Ả rập (Arab Liberation Army) đã vào Nazareth. Trong 10 ngày chiến đấu diễn ra giữa cuộc ngừng bắn thứ nhất và thứ hai, Nazareth đầu hàng quân đội Israel trong cuộc hành quân Dekel ngày 16 tháng 6, sau sự kháng cự lẻ tẻ. Việc đầu hàng được chính thức hóa bằng một thỏa thuận viết bằng văn bản, trong đó các nhà lãnh đạo thành phố đồng ý ngưng mọi hành động thù địch, đổi lấy sự hứa hẹn của các sĩ quan Israel - trong đó có lữ đoàn trưởng Ben Dunkelman, (người chỉ huy cuộc hành quân) – là sẽ không làm hại các thường dân của thành phố.

Các chuẩn bị cho cuộc viếng thăm Nazareth của giáo hoàng Gioan Phaolô II năm 2000 gây ra các căng thẳng lớn công khai liên quan tới vương cung thánh đường Truyền Tin. Việc cho phép xây dựng một nơi họp chợ có lát gạch năm 1997 để buốn bán với hàng ngàn Kitô hữu hành hương mong đợi, đã gây ra sự phản đối của những người Hồi giáo, họ chiếm giữ vị trí được đề nghị xây dựng được coi như nơi có mộ của một người cháu của Saladin. Nơi này đã là địa điểm của một trường học được xây dựng dưới thời đế quốc Ottoman cai trị, mang tên al-Harbyeh (trong tiếng Ả rập nghĩa là quân sự), và nhiều người già ở Nazareth vẫn còn nhớ đó là nơi có trường học cũ, tuy nhiên, cũng chính nơi đây vẫn còn chứa lăng mộ của Shihab-Eddin, cùng với nhiều cửa hàng do waqf (quyền sở hữu cộng đoàn người Hồi giáo) sở hữu. Ngôi trường tiếp tục được dùng làm trường của chính phủ cho tới khi nó bị phá đi để xây nơi họp chợ nói trên.

Sư tranh cãi ban đầu giữa các phe chính trị khác nhau ở thành phố (đại diện trong hội đồng địa phương), là về vấn đề chỗ nào là ranh giới của lăng mộ cùng chỗ nào các tiệm khởi đầu và chỗ nào kết thúc. Việc chấp thuận ban đầu của chính phủ về các kế hoạch tiếp sau sẽ xây một đền thờ Hồi giáo lớn ở vị trí này đã dẫn tới việc phản đối của các nhà lãnh đạo Kitô giáo khắp thế giới, việc phản đối này vẫn tiếp tục sau chuyến viếng thăm của Giáo hoàng. Cuối cùng, năm 2002, một ủy ban đặc biệt của chính phủ đã hoãn vô thời hạn việc xây dựng đền thời Hồi giáo.[62][63]

Ngày 19.7.2006 một trái rocket do Hezbollah phóng ra là một phần của cuộc chiến tranh Israel-Liban 2006 đã giết chết 2 trẻ em ở Nazareth. Không nơi thiêng liêng nào bị hư hại.[64]

Năm 2007, một nhóm các doanh nhân Kitô giáo đã tuyên bố các kế hoạch xây dựng một Thánh giá lớn nhất thế giới (cao 60 m) ở Nazareth như quê hương thời niên thiếu của chúa Giêsu.[65]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Nazareth http://books.google.ca/books?id=2aOpeBnbxvsC&pg=PA... http://books.google.ca/books?id=3SapTk5iGDkC&pg=PA... http://books.google.ca/books?id=9cn1gwQXfgkC&pg=PA... http://books.google.ca/books?id=Y8ZnM0bt4CEC&pg=PA... http://biblos.com/isaiah/11-1.htm http://www.bostonherald.com/news/international/mid... http://www.christiantoday.com/article/plans.underw... http://www.cwnews.com/news/viewstory.cfm?recnum=17... http://www.ddtravel-acc.com/nazareth.htm http://www.earlychristianwritings.com/q-contents.h...